Thuyết Big Bang giáo dục
Christian Caryl, Foreign
Policy,
Trần Ngọc Cư dịchCác nước độc tài gần như không mấy thành công trong lãnh vực tri thức. Chắc chắn đây không phải là một sự kiện ngẫu nhiên.
Trung cộng không những chế tạo nhiều sản phẩm hơn phần còn lại của nhân loại – Trung cộng còn sắp sửa khống chế thế giới về mặt tri thức. Các đại học Trung cộng đang chuẩn bị chinh phục thế giới. Hiện nay, Trung cộng đang dẫn đầu về việc xuất bản các luận văn nghiên cứu. Mỗi năm các đại học Trung cộng cho ra hàng hàng lớp lớp những kỹ sư tốt nghiệp có chất lượng ưu việt – và điều này cũng chẳng lạ gì, nếu căn cứ vào lề lối học tập đầy gian khổ của họ.
Thật ra, không một điều nào ở trên là (hoàn toàn) đúng sự thật. Hẳn nhiên Trung cộng được cung cấp nhiều bộ óc vĩ đại [đào tạo ở nước ngoài], và hẳn nhiên nhiều sinh viên Trung cộng là những người làm việc chăm chỉ. Nhưng nhiều dữ liệu thống kê thường được trích dẫn về những thành công của Trung cộng trong lãnh vực học thuật hoá ra là trống rỗng. Vâng, giới hàn lâm Trung cộng xuất bản nhiều luận văn – cũng chỉ vì họ muốn đạt chỉ tiêu do chính phủ đề ra. Nhưng phẩm chất của hầu hết các tài liệu chuyên khảo do người Trung cộng soạn ra (được đánh giá qua số lần chúng được các học giả khác trích dẫn) thì không đồng nhất. Và những con số đáng kinh phục kia về đội ngũ kỹ sư ra trường cũng hoàn toàn bị lật tẩy. Một số những dữ liệu liên quan không có xuất xứ rõ ràng, và nhiều người trong số “kỹ sư” ấy nói đúng ra chỉ là “những kỹ thuật viên”, những người chỉ hội đủ điều kiện nghiệp vụ ở mức tối thiểu. (Đấy là chúng ta không nói đến tình trạng gian lận và tham nhũng đang lan tràn lộ liễu trong hệ thống giáo dục Trung cộng).
Nói tóm lại, câu chuyện về sự trỗi dậy của giáo dục Trung cộng cần được tiếp nhận với một thái độ hoài nghi. Đầu óc tôi tập trung vào sự kiện này vào hôm kia, khi tôi phát hiện một bài trên tờ New York Times mang tựa đề đáng sợ sau đây: “Mỹ rơi xuống và châu Á vươn lên trên bảng xếp hạng các trường đại học”. Bài báo nói đến một nghiên cứu mới nhất về đại học toàn cầu được tiến hành bởi tạp chí Times Higher Education (một trong những tổ chức hiếm hoi đưa ra bảng xếp hạng thường niên các đại học trên thế giới). Đây là một trong những đoạn mô tả sự qua mặt ngoạn mục của châu Á:
“Đại học châu Á đạt thành tích xuất sắc, với các đại học tại Trung cộng, Singapore, và Australia vượt lên bảng xếp hạng; mọi đại học ở Nam Hàn cũng thế, được dẫn đầu bởi Đại học Quốc gia Seoul đã nhảy từ vị thứ 124 lên 59. ‘Qua nhiều năm nay chúng ta đã nói nhiều về sự trỗi dậy của châu Á’, Phil Baty, biên tập viên bảng xếp hạng đã nói. ‘Nhưng đây mới là bằng chứng thực nghiệm vững chắc đầu tiên mà chúng ta có được.’”.
Ngoài vấn đề có nên coi Australialà một phần của châu Á hay không, tôi thấy luận đề này khá kích thích sự tò mò. Một sự quan sát kỹ lưỡng hơn về bảng xếp hạng nhanh chóng cho thấy rằng, vâng, các đại học từ châu Á chắc chắn là ở trong chiều hướng đi lên. Nhưng câu hỏi thú vị hoá ra lại là: Từ châu Á nào?
Dựa vào những rêu rao về sự trỗi dậy đáng kinh ngạc của giới hàn lâm Trung cộng, người ta kỳ vọng rằng các đại học của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sẽ chiếm một tỷ lệ vượt bực trong số những đại học thành công nói trên. Nhưng hoàn toàn không phải như vậy. Tổng cộng có 57 đại học châu Á được lọt vào danh sách 400 đại học hàng đầu toàn cầu lần này. Trong số đó chỉ có 9 đại học từ Hoa lục. Nghĩa là 9 trong tổng số 400. Cơ sở giáo dục được xếp hạng cao nhất của Trung cộng là Đại học Bắc Kinh ở vị thứ 46 (nằm ngay sau Đại học Washington tạiSt. Louis, bang Missouri).
Nhưng điều này không có nghĩa là tất cả các đại học Trung cộng đang tìm cách bắt kịp thời đại – và bằng chứng trở nên rõ ràng hơn khi ta nhìn vào phần còn lại của bảng xếp hạng. Đài Loan tự hào có được bảy đại học nằm trong danh sách hàng đầu nói trên, và Hồng Kông nhỏ bé – tôi cho là đơn vị thực sự đạt thành tích đáng ngạc nhiên nhất trong bản nghiên cứu – có đến 6 đại học trong số này. Vậy câu hỏi cần đặt ra là, tại sao hai lãnh thổ do người Hoa sinh sống này đã tiến bộ quá xa đến nỗi tổng số đại học của họ trong danh sách ưu tú đã vượt quá con số của Hoa Lục – mặc dù dân số của họ chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ xíu so với Hoa Lục?
Tôi xin mạo muội đưa ra một suy đoán: Tôi nghĩ sự kiện này có liên quan tới bản chất của các xã hội mà trong đó các đại học này đã bám rễ. Mặc dù dân chúng Hồng Kông không thể bầu lãnh đạo của mình một cách nghiêm chỉnh, nhưng văn hóa của lãnh thổ này mang tinh thần dân chủ, với một chế độ pháp trị vững mạnh và những sinh hoạt hội họp và tranh luận đã trở thành lề thói – đây là điều hiển nhiên không cần tranh cãi. (Dạ thưa, tôi biết: Hồng Kông chính thức là một phần của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Nhưng lãnh thổ này còn hưởng quyền tự trị đáng kể và vẫn còn hăng say bảo vệ tính độc đáo của mình). Đài Loan, hẳn nhiên, là một quốc gia dân chủ đa đảng – không cần phải giải thích gì thêm.
Do đó câu hỏi tiếp theo là, tại sao lập luận của tôi – rằng sự khác biệt này có liên quan tới chế độ dân chủ – là có lý? Nó có lý vì, thật khó mà xây dựng được một đại học nghiên cứu nghiêm chỉnh nếu không có tự do thông tin và tự do tìm hiểu – và đây chính là loại đại học mà các chế độ độc tài rất khó chấp nhận. “Tự do nghiên cứu là yếu tố cơ bản trong công thức tạo dựng một đại học đẳng cấp quốc tế”, đây là phát biểu của Phil Baty, người có trách nhiệm tiến hành cuộc nghiên cứu (và cũng là người được nói đến trong đoạn báo Times trích dẫn ở trên). Ông nói tiếp: “Các đại học phải cho phép giáo sư của mình có điều kiện tự do để chất vấn những kiến thức được tiếp thu”. Nếu ném đủ tiền và cơ sở hạ tầng vào vấn đề này, thì người ta cũng có thể làm được nhiều chuyện, ông nhận xét; các lãnh đạo Trung cộng, nhờ hiểu rõ tầm quan trọng của tri thức và sáng kiến kỹ thuật, hiện đang bù đắp lại cơ may đã mất trong lãnh vực này. Nhưng thậm chí đối với cả những môn như toán và khoa học, chắc chắn người ta sẽ không đạt được kết quả tối ưu cho đồng tiền chi ra, nếu giáo sư và sinh viên không được phép suy nghĩ tự do.
Có lẽ đây là lý do tại sao tuyệt đại đa số các quốc gia Đông Á khác, những quốc gia chiếm tỉ lệ nổi bật trong số 400 đại học hàng đầu – Nhật Bản (với 13 đại học) và Nam Hàn (6) – cũng lại là những nền dân chủ vững mạnh. Có thể biệt lệ duy nhất là quốc gia-đô thị nhỏ bé độc tàiSingaporecó hai đại học nằm trong danh sách ưu tú nói trên – một thành công rất ấn tượng. Tuy nhiên, đây chỉ là một biệt lệ – nhất là khi người ta nhận thấy rằng đại đa số các cơ sở giáo dục trong số 400 đại học hàng đầu vẫn là từ các quốc gia dân chủ Tây Âu và Bắc Mỹ. (Mỹ chiếm đến bảy trong số 10 đại học hàng đầu thế giới và 76 trong 100 đại học hàng đầu).
Dĩ nhiên, chúng ta có thể nhìn vấn đề này theo một chiều hướng ngược lại: Trong số các nước độc tài trên thế giới, chỉ có Hoa Lục là nước duy nhất có một sự hiện diện đáng kể nào đó trong số 400 đại học hàng đầu. Chỉ có hai đại học từ Liên bang Nga lọt vào trong danh sách nói trên. Tại Trung Đông, cả Israel lẫn Thổ Nhĩ Kỳ đều có một số trường trong danh sách, nhưng Ả Rập Saudi và Iran mỗi nước chỉ có được một trường. (Vâng, đúng vậy: Toàn bộ thế giới Ả Rập, một khu vực có thời là kho chứa tri thức nhân loại, chỉ chiếm một trong số 400 đại học hàng đầu của thế giới).
Có lẽ các nhà lãnh đạo độc tài phải nhìn kỹ hơn nữa đại học số 1 trong bản nghiên cứu: California Institute of Technology, viết tắt Cal Tech (Học viện Công nghệ California). Như Baty nhận xét, Cal Tech được nổi tiếng không những chỉ nhờ đường lối học tập sáng tạo (theo đó từng nhóm nhỏ sinh viên tích cực tham gia giải quyết các vấn đề, hơn là chỉ lắng nghe các bài giảng một cách thụ động, với một đội ngũ các nhà khoa học hàng đầu trên thế giới), mà lại còn nhờ tinh thần sáng tạo một cách tự do, kể cả việc ưa chuộng các trò tinh nghịch và những chuyện điên rồ. Tinh thần này cũng được áp dụng tại MIT (đứng thứ 5 trên bảng xếp hạng), một cơ sở đại học rất tự hào về đường lối giảng dạy phi truyền thống – cũng như một lịch sử phong phú liên quan các vụ tin tặc.
Một đại học nghiên cứu thành công, Baty lý luận, phải cho phép “các giáo sư đi theo cái mũi của mình và suy nghĩ những chuyện trên trời dưới bể”. (Trong văn cảnh này, tôi nghĩ không phải là một trường hợp tình cờ mà các nhân vật chính trong hài kịch TV Mỹ “Thuyết Big Bang”, một hài kịch ca ngợi tính cách khờ khạo do việc đam mê khoa học chống lại các tín điều mông muội, đều là các sinh viên cao học tại Cal Tech).
Dĩ nhiên, không phải mọi việc đều là lạc quan tại các đại học Anh, Mỹ, như Baty nhanh chóng vạch rõ. Các chi phí đang tăng cao. Các quỹ nghiên cứu ngày càng tập trung vào những mục tiêu hạn hẹp, lấy mất ngân sách của các loại nghiên cứu cơ bản vốn rất cần thiết cho những khám phá to lớn. Và phải nhìn nhận, ngoài ra còn có sức ép cạnh tranh đang gia tăng từ các đại học mới trên bối cảnh toàn cầu.
Sự kiện này nhất định không phải là lý do để dao động quá đáng. Trái lại: Các đại học đã được xây dựng ổn định phải hoan nghênh sự cạnh tranh này (đấy là chưa nói đến các khả năng hợp tác mới mẻ). Nhưng chắc chắn điều này không có nghĩa là những trường có truyền thống nghiên cứu thành công nhờ không bị hạn chế sẽ quên mất những giá trị đã đưa chúng đến địa vị ngày nay. Tự do chính là không khí mà các tư duy tốt đẹp cần đến để thở.
C. C.
Christian Carlyl là nhà nghiên cứu thâm niên tại Legatum Institute, thường đóng góp bài vở cho Foreign Policy, và cũng là nhà nghiên cứu thâm niên tại MIT Center for International Studies (Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế của Đại học MIT).
Trần Ngọc Cư dịchCác nước độc tài gần như không mấy thành công trong lãnh vực tri thức. Chắc chắn đây không phải là một sự kiện ngẫu nhiên.
Trung cộng không những chế tạo nhiều sản phẩm hơn phần còn lại của nhân loại – Trung cộng còn sắp sửa khống chế thế giới về mặt tri thức. Các đại học Trung cộng đang chuẩn bị chinh phục thế giới. Hiện nay, Trung cộng đang dẫn đầu về việc xuất bản các luận văn nghiên cứu. Mỗi năm các đại học Trung cộng cho ra hàng hàng lớp lớp những kỹ sư tốt nghiệp có chất lượng ưu việt – và điều này cũng chẳng lạ gì, nếu căn cứ vào lề lối học tập đầy gian khổ của họ.
Thật ra, không một điều nào ở trên là (hoàn toàn) đúng sự thật. Hẳn nhiên Trung cộng được cung cấp nhiều bộ óc vĩ đại [đào tạo ở nước ngoài], và hẳn nhiên nhiều sinh viên Trung cộng là những người làm việc chăm chỉ. Nhưng nhiều dữ liệu thống kê thường được trích dẫn về những thành công của Trung cộng trong lãnh vực học thuật hoá ra là trống rỗng. Vâng, giới hàn lâm Trung cộng xuất bản nhiều luận văn – cũng chỉ vì họ muốn đạt chỉ tiêu do chính phủ đề ra. Nhưng phẩm chất của hầu hết các tài liệu chuyên khảo do người Trung cộng soạn ra (được đánh giá qua số lần chúng được các học giả khác trích dẫn) thì không đồng nhất. Và những con số đáng kinh phục kia về đội ngũ kỹ sư ra trường cũng hoàn toàn bị lật tẩy. Một số những dữ liệu liên quan không có xuất xứ rõ ràng, và nhiều người trong số “kỹ sư” ấy nói đúng ra chỉ là “những kỹ thuật viên”, những người chỉ hội đủ điều kiện nghiệp vụ ở mức tối thiểu. (Đấy là chúng ta không nói đến tình trạng gian lận và tham nhũng đang lan tràn lộ liễu trong hệ thống giáo dục Trung cộng).
Nói tóm lại, câu chuyện về sự trỗi dậy của giáo dục Trung cộng cần được tiếp nhận với một thái độ hoài nghi. Đầu óc tôi tập trung vào sự kiện này vào hôm kia, khi tôi phát hiện một bài trên tờ New York Times mang tựa đề đáng sợ sau đây: “Mỹ rơi xuống và châu Á vươn lên trên bảng xếp hạng các trường đại học”. Bài báo nói đến một nghiên cứu mới nhất về đại học toàn cầu được tiến hành bởi tạp chí Times Higher Education (một trong những tổ chức hiếm hoi đưa ra bảng xếp hạng thường niên các đại học trên thế giới). Đây là một trong những đoạn mô tả sự qua mặt ngoạn mục của châu Á:
“Đại học châu Á đạt thành tích xuất sắc, với các đại học tại Trung cộng, Singapore, và Australia vượt lên bảng xếp hạng; mọi đại học ở Nam Hàn cũng thế, được dẫn đầu bởi Đại học Quốc gia Seoul đã nhảy từ vị thứ 124 lên 59. ‘Qua nhiều năm nay chúng ta đã nói nhiều về sự trỗi dậy của châu Á’, Phil Baty, biên tập viên bảng xếp hạng đã nói. ‘Nhưng đây mới là bằng chứng thực nghiệm vững chắc đầu tiên mà chúng ta có được.’”.
Ngoài vấn đề có nên coi Australialà một phần của châu Á hay không, tôi thấy luận đề này khá kích thích sự tò mò. Một sự quan sát kỹ lưỡng hơn về bảng xếp hạng nhanh chóng cho thấy rằng, vâng, các đại học từ châu Á chắc chắn là ở trong chiều hướng đi lên. Nhưng câu hỏi thú vị hoá ra lại là: Từ châu Á nào?
Dựa vào những rêu rao về sự trỗi dậy đáng kinh ngạc của giới hàn lâm Trung cộng, người ta kỳ vọng rằng các đại học của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sẽ chiếm một tỷ lệ vượt bực trong số những đại học thành công nói trên. Nhưng hoàn toàn không phải như vậy. Tổng cộng có 57 đại học châu Á được lọt vào danh sách 400 đại học hàng đầu toàn cầu lần này. Trong số đó chỉ có 9 đại học từ Hoa lục. Nghĩa là 9 trong tổng số 400. Cơ sở giáo dục được xếp hạng cao nhất của Trung cộng là Đại học Bắc Kinh ở vị thứ 46 (nằm ngay sau Đại học Washington tạiSt. Louis, bang Missouri).
Nhưng điều này không có nghĩa là tất cả các đại học Trung cộng đang tìm cách bắt kịp thời đại – và bằng chứng trở nên rõ ràng hơn khi ta nhìn vào phần còn lại của bảng xếp hạng. Đài Loan tự hào có được bảy đại học nằm trong danh sách hàng đầu nói trên, và Hồng Kông nhỏ bé – tôi cho là đơn vị thực sự đạt thành tích đáng ngạc nhiên nhất trong bản nghiên cứu – có đến 6 đại học trong số này. Vậy câu hỏi cần đặt ra là, tại sao hai lãnh thổ do người Hoa sinh sống này đã tiến bộ quá xa đến nỗi tổng số đại học của họ trong danh sách ưu tú đã vượt quá con số của Hoa Lục – mặc dù dân số của họ chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ xíu so với Hoa Lục?
Tôi xin mạo muội đưa ra một suy đoán: Tôi nghĩ sự kiện này có liên quan tới bản chất của các xã hội mà trong đó các đại học này đã bám rễ. Mặc dù dân chúng Hồng Kông không thể bầu lãnh đạo của mình một cách nghiêm chỉnh, nhưng văn hóa của lãnh thổ này mang tinh thần dân chủ, với một chế độ pháp trị vững mạnh và những sinh hoạt hội họp và tranh luận đã trở thành lề thói – đây là điều hiển nhiên không cần tranh cãi. (Dạ thưa, tôi biết: Hồng Kông chính thức là một phần của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Nhưng lãnh thổ này còn hưởng quyền tự trị đáng kể và vẫn còn hăng say bảo vệ tính độc đáo của mình). Đài Loan, hẳn nhiên, là một quốc gia dân chủ đa đảng – không cần phải giải thích gì thêm.
Do đó câu hỏi tiếp theo là, tại sao lập luận của tôi – rằng sự khác biệt này có liên quan tới chế độ dân chủ – là có lý? Nó có lý vì, thật khó mà xây dựng được một đại học nghiên cứu nghiêm chỉnh nếu không có tự do thông tin và tự do tìm hiểu – và đây chính là loại đại học mà các chế độ độc tài rất khó chấp nhận. “Tự do nghiên cứu là yếu tố cơ bản trong công thức tạo dựng một đại học đẳng cấp quốc tế”, đây là phát biểu của Phil Baty, người có trách nhiệm tiến hành cuộc nghiên cứu (và cũng là người được nói đến trong đoạn báo Times trích dẫn ở trên). Ông nói tiếp: “Các đại học phải cho phép giáo sư của mình có điều kiện tự do để chất vấn những kiến thức được tiếp thu”. Nếu ném đủ tiền và cơ sở hạ tầng vào vấn đề này, thì người ta cũng có thể làm được nhiều chuyện, ông nhận xét; các lãnh đạo Trung cộng, nhờ hiểu rõ tầm quan trọng của tri thức và sáng kiến kỹ thuật, hiện đang bù đắp lại cơ may đã mất trong lãnh vực này. Nhưng thậm chí đối với cả những môn như toán và khoa học, chắc chắn người ta sẽ không đạt được kết quả tối ưu cho đồng tiền chi ra, nếu giáo sư và sinh viên không được phép suy nghĩ tự do.
Có lẽ đây là lý do tại sao tuyệt đại đa số các quốc gia Đông Á khác, những quốc gia chiếm tỉ lệ nổi bật trong số 400 đại học hàng đầu – Nhật Bản (với 13 đại học) và Nam Hàn (6) – cũng lại là những nền dân chủ vững mạnh. Có thể biệt lệ duy nhất là quốc gia-đô thị nhỏ bé độc tàiSingaporecó hai đại học nằm trong danh sách ưu tú nói trên – một thành công rất ấn tượng. Tuy nhiên, đây chỉ là một biệt lệ – nhất là khi người ta nhận thấy rằng đại đa số các cơ sở giáo dục trong số 400 đại học hàng đầu vẫn là từ các quốc gia dân chủ Tây Âu và Bắc Mỹ. (Mỹ chiếm đến bảy trong số 10 đại học hàng đầu thế giới và 76 trong 100 đại học hàng đầu).
Dĩ nhiên, chúng ta có thể nhìn vấn đề này theo một chiều hướng ngược lại: Trong số các nước độc tài trên thế giới, chỉ có Hoa Lục là nước duy nhất có một sự hiện diện đáng kể nào đó trong số 400 đại học hàng đầu. Chỉ có hai đại học từ Liên bang Nga lọt vào trong danh sách nói trên. Tại Trung Đông, cả Israel lẫn Thổ Nhĩ Kỳ đều có một số trường trong danh sách, nhưng Ả Rập Saudi và Iran mỗi nước chỉ có được một trường. (Vâng, đúng vậy: Toàn bộ thế giới Ả Rập, một khu vực có thời là kho chứa tri thức nhân loại, chỉ chiếm một trong số 400 đại học hàng đầu của thế giới).
Có lẽ các nhà lãnh đạo độc tài phải nhìn kỹ hơn nữa đại học số 1 trong bản nghiên cứu: California Institute of Technology, viết tắt Cal Tech (Học viện Công nghệ California). Như Baty nhận xét, Cal Tech được nổi tiếng không những chỉ nhờ đường lối học tập sáng tạo (theo đó từng nhóm nhỏ sinh viên tích cực tham gia giải quyết các vấn đề, hơn là chỉ lắng nghe các bài giảng một cách thụ động, với một đội ngũ các nhà khoa học hàng đầu trên thế giới), mà lại còn nhờ tinh thần sáng tạo một cách tự do, kể cả việc ưa chuộng các trò tinh nghịch và những chuyện điên rồ. Tinh thần này cũng được áp dụng tại MIT (đứng thứ 5 trên bảng xếp hạng), một cơ sở đại học rất tự hào về đường lối giảng dạy phi truyền thống – cũng như một lịch sử phong phú liên quan các vụ tin tặc.
Một đại học nghiên cứu thành công, Baty lý luận, phải cho phép “các giáo sư đi theo cái mũi của mình và suy nghĩ những chuyện trên trời dưới bể”. (Trong văn cảnh này, tôi nghĩ không phải là một trường hợp tình cờ mà các nhân vật chính trong hài kịch TV Mỹ “Thuyết Big Bang”, một hài kịch ca ngợi tính cách khờ khạo do việc đam mê khoa học chống lại các tín điều mông muội, đều là các sinh viên cao học tại Cal Tech).
Dĩ nhiên, không phải mọi việc đều là lạc quan tại các đại học Anh, Mỹ, như Baty nhanh chóng vạch rõ. Các chi phí đang tăng cao. Các quỹ nghiên cứu ngày càng tập trung vào những mục tiêu hạn hẹp, lấy mất ngân sách của các loại nghiên cứu cơ bản vốn rất cần thiết cho những khám phá to lớn. Và phải nhìn nhận, ngoài ra còn có sức ép cạnh tranh đang gia tăng từ các đại học mới trên bối cảnh toàn cầu.
Sự kiện này nhất định không phải là lý do để dao động quá đáng. Trái lại: Các đại học đã được xây dựng ổn định phải hoan nghênh sự cạnh tranh này (đấy là chưa nói đến các khả năng hợp tác mới mẻ). Nhưng chắc chắn điều này không có nghĩa là những trường có truyền thống nghiên cứu thành công nhờ không bị hạn chế sẽ quên mất những giá trị đã đưa chúng đến địa vị ngày nay. Tự do chính là không khí mà các tư duy tốt đẹp cần đến để thở.
C. C.
Christian Carlyl là nhà nghiên cứu thâm niên tại Legatum Institute, thường đóng góp bài vở cho Foreign Policy, và cũng là nhà nghiên cứu thâm niên tại MIT Center for International Studies (Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế của Đại học MIT).